Kiến trúc của ngôi chùa Việt Nam ngày nay

27/06/2021

Tổng quan về kiến trúc ngôi chùa Việt Nam

Việt Nam hiện nay có khoảng 14.500 ngôi tự viện Phật giáo trên khắp đất nước của ba Hệ Phái chính là Bắc tông, Nam tông và Khất sĩ. Ở miền Bắc chỉ có ngôi chùa Phật giáo Bắc tông. Ở miền Trung (từ Quảng Trị trở vào) và miền Nam, ngoài ngôi chùa Phật giáo Bắc tông, còn có ngôi chùa Phật giáo Nam tông Việt, Nam tông Khmer và ngôi tịnh xá Phật giáo Khất sĩ. Kiến trúc ngôi chùa Việt Nam rất đa dạng. Nhiều tác giả đã phân loại chùa và giới thiệu các kiểu kiến trúc của chùa Việt Nam như sau:

Các tác giả Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự, Phạm Ngọc Long trong sách Chùa Việt Nam (NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993) cho biết tên các kiểu chùa truyền thống thường được đặt theo các chữ Trung Quốc có dạng gần với bình diện kiến trúc chùa. Đó là kiểu chữ Đinh, kiểu chữ Công, kiểu chữ Tam và kiểu chữ nội Công ngoại Quốc. Tên những kiểu chùa này chỉ dựa vào cụm kiến trúc chính. Trong chùa, còn có những ngôi nhà khác như nhà tổ, nhà tăng, gác chuông, tháp, tam quan … Ngoài người Kinh, còn có chùa ở một số dân tộc thiểu số. Chùa của người Mường làm bằng tranh tre đơn giản. Chùa người Khmer được xây dựng đẹp, có bộ mái ảnh hưởng Campuchia và Thái Lan. Chùa người Hoa cũng có sắc thái kiến trúc riêng. Tính đa dạng của kiến trúc chùa Việt Nam càng tăng khi xuất hiện những ngôi chùa hiện đại được xây dựng gần đây. 

Tác giả Trần Lâm Biền trong sách Hỏi và đáp về văn hóa Việt Nam, tái bản lần 3 (NXB. Văn hóa dân tộc và tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, 2000) cho biết chùa Việt thường dàn trải theo mặt bằng với nhiều đơn nguyên kiến trúc. Chùa bao giờ cũng được dựng ở mảnh đất thu giữ được khí thiêng của trời đất: đất cao, tươi nhuận, có dòng chảy hoặc hồ ao trước mặt. Mặt chùa quay hướng Nam, đó là hướng bát nhã (trí tuệ), phát triển thiện tâm. Mở đầu cho ngôi chùa là tam quan. Qua tam quan, con đường Nhất chánh đạo dẫn vào thế giới Phật. Mở đầu hệ thống chùa chính là tòa tiền đường, nơi đây các Phật tử ngồi tụng kinh để rèn tâm kiến tính nhằm xây dựng lòng thiện theo con đường từ bi của đức Phật. Bàn thờ Phật nằm ở gian giữa chùa, gian này mở lùi về phía sau, tạo cho chùa chính có kết cấu hình chữ Công hay chữ Đinh. Do cửa chùa luôn rộng mở với mọi chúng sinh, nơi thờ không bao giờ bị che chắn, vì vậy nơi đây gọi là thượng điện. Bao quanh hai bên chùa nhiều khi còn có hai dãy hành lang và phía sau là nhà hậu. Tòa nhà hậu thường để thờ tổ chùa, thờ mẫu, thờ những người có công với chùa; đồng thời làm nơi ở cho chư tăng, nhà khách, nhà bếp … Ngoài ra, hầu như chùa nào cũng có tháp. Số lượng tầng gắn với cương vị thuộc kết quả tu hành trong Phật đạo.

Các tác giả Nguyễn Thế Long, Phạm Mai Hùng trong sách Chùa Hà Nội (NXB. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1997) cho biết những ngôi chùa Việt Nam trong bốn mùa đều mang một vẻ đẹp kín đáo thầm lặng, lắng đọng sâu trong tâm hồn người hướng về điều thiện. Vẻ đẹp của ngôi chùa Việt Nam trước hết ở chỗ hài hoà với cảnh quan môi trường chung quanh. Chùa Việt Nam thường gắn bó với sông nước, hồ ao. Trước khi vào chùa lễ Phật, khách thường phải qua cổng tam quan. Qua tam quan, cõi tục và cõi trần như đã được phân chia. Bố cục mặt bằng của các ngôi chùa thường lấy sự cân xứng đăng đối làm phương tức chủ đạo. Các chùa thời Lý thường lấy sự đăng đối quy tụ về một điểm ở giữa. Chùa Một Cột là một điển hình. Các chùa được xây dựng từ thời Trần về sau thường được bố cục đăng đối theo một trục dài từ cổng tam quan vào đến nhà tổ phía sau cùng. Các nhà thường được xây dàn hàng ngang một dãy (dân quen gọi là chữ Nhất), hai hàng ngang (chữ Nhị), ba hàng ngang (chữ Tam). Có chùa được bố cục theo kiểu chữ Đinh (như chữ T), theo kiểu chữ Công (như chữ H nằm ngang), hoặc kiểu nội Công ngoại Quốc (bên trong là chữ H nằm ngang và bên ngoài gồm các nhà bao bọc tạo nên một hình vuông hay chữ  nhật). Các chùa ở Nam Bộ thường được xây theo kiểu chữ Nhất. Quần thể kiến trúc chùa ngoài việc bao gồm những dãy nhà, còn có những kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao như các tháp, chuông và gác chuông, lầu khánh và các bia cùng nhà bia.

Tác giả Chu Quang Trứ trong sách Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam (NXB. Mỹ thuật, Hà Nội, 2001) cho biết ở những thế kỷ đầu Công nguyên thì giáo đường của Phật giáo mới chỉ là những am miếu mà nhà sư Khương Tăng Hội gọi là miếu đường hoặc tông miếu. Bước vào thời tự chủ, chùa tháp được xây dựng khắp nơi “chỗ nào có người ở tất có chùa tờ Phật”(bia chùa Thiên Phúc). Trong nước, chỗ nào “hễ có cảnh đẹp núi non thì đều xây dựng chùa chiền” (bia chùa Linh Xứng). Trong chùa thời Lý, tháp đóng vai trò chính, là cái đền Phật giáo. Những cây tháp phần lớn ở trên những quả núi đột khởi giữa đồng bằng, hoà nhập với các dãy nhà và cây cối chung quanh, tạo cả một tổng thể kiến trúc vừa vươn cao vừa trải rộng, thiêng liêng mà vững chãi. Một loạt chùa khác được xây dựng ở sườn đồi, trườn lên và trải ngang, hoà vào cảnh đẹp tự nhiên; cũng như chùa xây ở nơi bình địa, chiếm một diện tích khá rộng, bố cục đăng đối, gần với xóm làng, khang trang mà ấm cúng. Đến thế kỷ XVII, nhiều nhà quý tộc đã xuất tiền để mở chùa to lớn, gồm nhiều nếp nhà vòng trong vòng ngoài theo kiểu nội Công ngoại Quốc phát triển cả về chiều ngang và chiều dọc, gắn bó mật thiết với hồ ao và vườn cây, vườn cảnh tạo khối hình hoành tráng giữa thiên nhiên. Đến cuối thế kỷ XVIII, ngôi chùa với mặt bằng chữ Tam ra đời song được quây lại theo chữ Công, các nếp nhà đều chồng diêm với hai tầng mái và tám hoa đao. Kiến trúc Phật giáo là chùa tháp, nó gắn với làng xóm để giữ mối liên hệ mật thiết với dân làng, cả khi có sự bảo trợ của nhà nước hay của quý tộc, thì ngôi chùa vẫn là trung tâm văn hóa tôn giáo của địa phương. Ngôi chùa “đóng kín” ở nơi thờ nhưng lại “mở” với sự hòa quyện nội và ngoại thất, con người ở đây lúc nào cũng gần gũi thiên nhiên với một cuộc sống hướng thiện.

Tác giả Nguyễn Đăng Duy trong sách Phật giáo với văn hóa Việt Nam (NXB. Hà Nội, 1999) cho biết khá rõ về đặc điểm kiến trúc ngôi chùa ở từng miền qua các thời đại. Đó là sự hoàn thiện ngôi chùa nội Công ngoại Quốc vào thế kỷ XVII, kết quả đỉnh cao của truyền thống dựng chùa thờ Phật bằng kiến trúc gỗ của người Việt trên đất Bắc. Đó là sự xuất hiện ngôi chùa chữ Khẩu ở miền Trung. Mặt trước, tòa chánh điện thờ tiền Phật hậu tổ, hai dãy nhà hai bên là nhà khách, nhà tăng, dãy nhà hậu phía sau thờ các vong Phật tử. Tất cả bao quanh một sân có bể cạn, hòn non bộ, cây cảnh. Ở miền Nam, tác giả lại chia nhóm chùa kiến trúc gỗ, nhóm chùa kiến trúc gạch đá xi măng và nhóm chùa mang tính chất công viên Phật giáo. Tác giả cũng giới thiệu về kiến trúc ngôi chùa Khmer. Chánh điện thường hình chữ nhật, bố trí điện thờ theo chiều dọc của kiến trúc. Các ngôi chánh điện không những mở nhiều cửa sổ, mà bốn mặt bao giờ cũng tạo hành lang bao quanh cao, rộng, thoáng.

Qua ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu và với thực tế ngôi chùa ở nuớc ta hiện nay, chúng ta thấy rằng không có một kiểu mẫu nào cho ngôi chùa Việt Nam cả. Mỗi thời đại, ngôi chùa có một số đặc điểm kiến trúc riêng. Mỗi địa phương cũng tùy theo những điều kiện địa lý mà có kiểu kiến trúc chùa phù hợp. Ngày nay, các hệ phái Phật giáo cũng có những kiểu kiến trúc khác nhau.

Ở bài này, chúng tôi chọn một số ngôi chùa tiêu biểu của ba Hệ phái Phật giáo Bắc tông, Nam tông, Khất sĩ để giới thiệu những nét chung nhất trong kiến trúc ngôi chùa ở nước ta.

Những ngôi chùa Phật giáo Bắc Tông tiêu biểu

Miền Bắc có chùa Hoa Yên, Yên Tử ở Quảng Ninh; chùa Phật Tích, chùa Pháp Vân (chùa Dâu), chùa Ninh Phúc (chùa Bút Tháp) ở Bắc Ninh; chùa Phổ Minh, chùa Thần Quang (chùa Cổ Lễ) ở Nam Định; chùa Vĩnh Nghiêm ở Bắc Giang; chùa Diên Hựu, chùa Trấn Quốc, chùa Chiêu Thiền (chùa Láng), chùa Quán Sứ, chùa Kim Liên ở Hà Nội; chùa Thiên Trù (Hương Sơn), chùa Thiên Phúc (chùa Thầy), chùa Quảng Nghiêm (chùa Trăm Gian), chùa Sùng Nghiêm (chùa Mía), chùa Sùng Phúc (chùa Tây Phương), chùa Thành Đạo (chùa Đậu) ở Hà Tây; chùa Thần Quang (chùa Keo) ở Thái Bình; chùa Phúc Lâm (chùa Dư Hàng) ở Hải Phòng v.v…

Miền Trung có chùa Tịnh Quang ở Quảng Trị; chùa Thiên Mụ, chùa Báo Quốc, chùa Từ Đàm, chùa Thiền Tôn, chùa Từ Hiếu ở Thừa Thiên – Huế; chùa Pháp Lâm, chùa Linh Ứng ở Đà Nẵng; chùa Chúc Thánh ở Hội An, Quảng Nam; chùa Thiên Ấn ở Quảng Ngãi; chùa Thập Tháp Di Đà, chùa Long Khánh ở Bình Định; chùa Bảo Tịnh ở Phú Yên; chùa Long Sơn ở Nha Trang, Khánh Hòa; chùa Phật Quang, chùa Cổ Thạch (chùa Hang) ở Bình Thuận; chùa Khải Đoan ở Đắc Lắc; chùa Bửu Nghiêm ở Gia Lai; chùa Hồng Từ ở Kon Tum; chùa Linh Sơn, chùa Linh Phước, chùa Linh Phong, thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt, Lâm Đồng v.v…

Miền Nam có chùa Huê Nghiêm, chùa Giác Lâm, chùa Giác Viên, chùa Phụng Sơn, chùa Ấn Quang, chùa Xá Lợi, chùa Quán Thế Âm, chùa Vĩnh Nghiêm, Bát Bửu Phật đài, chùa Viên Giác, thiền viện Vạn Hạnh ở thành phố Hồ Chí Minh; chùa Bửu Phong, chùa Đại Giác, chùa Chúc Thọ, thiền viện Thường Chiếu ở Đồng Nai; chùa Hội Khánh, chùa Châu Thới ở Bình Dương; chùa Vĩnh Tràng ở Tiền Giang; chùa Khánh Quang ở Cần Thơ; chùa Tây An ở Châu Đốc, An Giang; chùa Hải Sơn (chùa Hang), chùa Tam Bảo ở Hà Tiên, Kiên Giang; chùa Đại Tòng Lâm, Ni viện Thiện Hòa, chùa Linh Sơn Bửu Thiền, chùa Hải Vân, Niết Bàn tịnh xá, Thích Ca Phật đài ở Bà Rịa – Vũng Tàu; chùa Linh Sơn Tiên Thạch, núi Bà Đen, Tây Ninh v.v…

Nét chung nhất trong kiến trúc ngôi chùa Phật giáo đi từ ngoài vào là: cổng chùa, sân chùa, tháp, gác chuông, nhà bia, vườn hoa, ngôi chánh điện, nhà thờ tổ, sân thiên tỉnh, nhà tăng, nhà khách, nhà trai, nhà giảng, Tuệ Tĩnh đường, nhà bếp, khu tháp mộ v.v…

Cổng chùa là ranh giới giữa cõi đời và cõi đạo. Có cổng có ba cửa gọi là tam quan (Tam quan hay tam quán được giải thích trong Phật học từ điển (Đoàn Trung Còn, Phật học từ điển, quyển III, NXB. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992) như sau: Tam quán là ba mối, ba chỗ quán tưởng). Có chùa xây tam quan hai tầng, tầng trên dùng làm gác chuông (chùa Mía, chùa Đậu), hoặc tầng trên thờ tượng Hộ Pháp (chùa Linh Sơn Đông Thuyền, chùa Linh Phong), thờ tượng Phật (chùa Phụng Sơn), thờ tuợng vị tăng (chùa Vĩnh Tràng) v.v…

Sau cổng chùa là trục chánh đạo dẫn vào sân chùa. Sân chùa trồng nhiều cây có bóng mát. Có chùa ở sân trước có hòn non bộ (chùa Diên Hựu, chùa Ấn Quang), có chùa ở sân trước có hồ sen (chùa Phổ Minh, chùa Từ Hiếu), hoặc hồ nước lớn (chùa Keo, Thái Bình).

  1. Không quán (quan): xét ra sự vật đều không có thật tánh, thật tướng, mọi pháp vốn không.
  2. Giả quán (quan): xét rằng vạn vật, chư pháp đều biến hóa vô thường, đều là giả, tạm cả.
  3. Trung quán (quan): phải quán cho đắc lẽ Trung đạo, không phải không, không phải giả. Đó là chỗ trọng yếu của đạo Phật.

Những ngôi chùa Phật giáo Nam Tông tiêu biểu

Ngôi chùa Phật giáo Nam tông có hai dạng: chùa Nam tông Việt và chùa Nam tông Khmer.

Chùa Phật giáo Nam tông phát triển ở miền Trung và miền Nam. Ở miền Bắc chỉ có một vị sư đang hành đạo ở chùa Thiên Phúc, Bắc Ninh.

Có 73 ngôi chùa Nam tông Việt và khoảng 500 ngôi chùa Nam tông Khmer.

Ngôi chùa Nam tông Việt đầu tiên là chùa Bửu Quang ở Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh được cụ Nguyễn Văn Hiểu cho xây dựng vào năm 1938. Hòa thượng Hộ Tông trụ trì đầu tiên sau thời gian học đạo tại chùa Unalom ở Campuchia. Một số ngôi chùa nổi tiếng khác ở TP. Hồ Chí Minh là: chùa Kỳ Viên, chùa Phật Bảo, chùa Bửu Long, chùa Giác Quang, chùa Phổ Minh

Những ngôi Tịnh xá Phật giáo Khất sĩ tiêu biểu

Hệ phái Khất sĩ do Tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập từ năm 1944. Hiện nay, hệ phái có hơn 2.000 Tăng Ni xuất gia tu học tại 400 ngôi tịnh xá, tịnh thất ở các tỉnh miền Trung và miền Nam. Ngôi chùa của hệ phái được Tổ sư Minh Đăng Quang gọi là tịnh xá, tức là nơi trú xứ an tịnh, trong sạch.

Danh hiệu của ngôi tịnh xá đều có chữ Ngọc đứng trước. Ý của vị Tổ sư muốn khuyên dạy đệ tử luôn tinh tấn tu học để có được phẩm chất quý như ngọc, hiển lộ được ngọc trong tâm mình. Sau chữ ngọc là một chữ có liên hệ đến địa phương nơi tịnh xá tọa lạc. Ví dụ: Tịnh xá Ngọc Châu (huyện Tân Châu, tỉnh An Giang), tịnh xá Ngọc Vinh (thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh), tịnh xá Ngọc Trang (TP. Nha Trang), tịnh xá Ngọc Nhơn (TP. Quy Nhơn), tịnh xá Ngọc Ban (TP. Buôn Ma Thuột)… Cũng có nhiều tịnh xá không đặt tên như vậy, như: Pháp viện Minh Đăng Quang, tịnh xá Trung Tâm, tịnh xá Lộc Uyển, tịnh xá Kỳ Hoàn (TP. Hồ Chí Minh); tịnh xá Kỳ Viên An Giang).

GSTS. Trương Quang Vinh – GSTS. Lê Đình Viên

Thiết kế website - phongmy.vn